Nguồn gốc Captain (lớp khinh hạm)

Hai chiếc thuộc phân lớp Buckley đang được chế tạo

Vào tháng 6 năm 1941, tận dụng những lợi điểm của Chương trình Cho thuê-Cho mượn, của Hoa Kỳ, chính phủ Hoàng gia Anh đề nghị phía Hoa Kỳ thiết kế, chế tạo và cung cấp một kiểu tàu hộ tống phù hợp cho chiến tranh chống tàu ngầm trong bối cảnh giữa đại dương.[2] Những đặc trưng cụ thể bao gồm một chiều dài 300 foot (90 m), đạt vận tốc tối đa 20 hải lý trên giờ (37 km/h), dàn pháo chính đa dụng (chống hạm lẫn phòng không) và một cầu tàu dạng mở.[3]

Hải quân Hoa Kỳ đã từng xem xét về triển vọng của một kiểu tàu như vậy từ năm 1939; và khi Đại tá Hải quân Edward L. Cochrane thuộc Văn phòng Tàu chiến Hải quân Mỹ trong chuyến viếng thăm Anh vào năm 1940 đã xem xét các kiểu tàu corvettetàu khu trục lớp Hunt, và đã đưa ra một thiết kế cho loại tàu này.[4] Nhu cầu về một kiểu tàu chiến như thế này sẽ rất lớn, nên cần phải giải quyết một "nút thắt cổ chai" trong quá trình chế tạo: sản xuất hộp số giảm tốc xoắn ốc kép cần thiết cho động cơ tuốc bin hơi nước của tàu khu trục.[5][3] Việc sản xuất hộp số giảm tốc không thể dễ dàng tăng tốc, vì chỉ riêng những máy móc chính xác cần thiết cũng phải mất một năm để chế tạo.[3] Do đó một thiết kế đang sẵn sàng và đã được chứng minh của hệ thống động lực diesel-điện, vốn được sử dụng trên tàu ngầm, sẽ được áp dụng.

Khi phía Anh đề đạt những yêu cầu này, Đô đốc Harold Rainsford Stark, Tư lệnh Tác chiến Hải quân Hoa Kỳ, quyết định xúc tiến những kế hoạch này và đề xuất chấp nhận đặt hàng của Anh.[6] Hãng thiết kế hàng hải Gibbs & Cox được giao nhiệm vụ thiết kế đã thực hiện nhiều thay đổi cho quy trình chế tạo và bản thiết kế gốc cùa Đại tá Cochrane; đáng kể nhất là xóa bỏ một "nút thắt cổ chai" khác: thay thế kiểu hải pháo 5 inch/38 caliber đa dụng đang rất cần cho mọi loại tàu chiến (từ thiết giáp hạm cho đến tàu khu trục hạm đội) bằng kiểu pháo 3 inch/50 caliber, vốn cho phép bố trí thêm một khẩu pháo thứ ba bắn thượng tầng tại vị trí B phía trước cầu tàu.[3] Ngoài ra thiết kế gốc yêu cầu có tám động cơ để đạt được tốc độ tối đa 24 hải lý trên giờ (44 km/h); nhưng việc phải nhường ưu tiên cho những chương trình khác khiến chỉ sử dụng bốn cụm động cơ diesel, nên rút ngắn chiều dài lườn tàu và làm giảm tốc độ tối đa khoảng 4 hải lý trên giờ (7 km/h).[7] Thiết kế có lớp vỏ giáp tương đối nhẹ, ví dụ như những tấm thép sử dụng cho phân lớp Buckley chỉ có chiều dày từ 1/2 inch đến 7/16 inch, trong khi thép 1/4 inch được sử dụng cho phần lớn lườn tàu và sàn tàu.[8]

Kết quả thiết kế là một con tàu có thể chế tạo nhanh chóng (ví dụ Halsted được chế tạo chỉ trong 24,5 ngày[9]) với chi phí chỉ bằng một nữa so với một tàu khu trục hạm đội,[6] (3,5 triệu Đô la Mỹ[10] so với 10,4 triệu Đô la cho một chiếc lớp Benson lượng choán nước 1.620 tấn,[11] hoặc 6,4 triệu Đô la cho một chiếc tàu khu trục lớp Hunt.[12])

Vào ngày 15 tháng 8, 1941, Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt chuẩn y việc chế tạo 50 chiếc theo thiết kế lớp Evarts mới, số hiệu BDE 1–50 (British destroyer escort) như một phần của Chương trình 1799.[3][13] Lớp Buckley với động cơ turbine-điện không thuộc về đơn đặt hàng đầu tiên, nhưng được chuẩn y sau đó theo Luật Công cộng 440 thông qua vào ngày 6 tháng 2, 1942.[14] Hải quân Hoàng gia đã đặt hàng vào tháng 11, 1941 cho bốn xưởng tàu: Xưởng hải quân Boston, Xưởng hải quân Mare Island, Xưởng hải quân PhiladelphiaXưởng hải quân Puget Sound.[6] Khi Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến, họ cũng sử dụng thiết kế BDE.[6] Kiểu xếp lớp BDE được duy trì bởi sáu tàu khu trục hộ tống đầu tiên (BDE 1, 2, 3, 4, 12 và 46) chuyển giao cho Anh. Trong số 50 chiếc được đặt hàng đầu tiên, Hải quân Hoàng gia chỉ nhận được một chiếc, số còn lại được xếp lại lớp thành tàu khu trục hộ tống (DE) vào ngày 25 tháng 1, 1943 và chuyển cho Hải quân Hoa Kỳ.[6] Cho đến cuối Thế Chiến II, Hải quân Hoàng gia đã nhận được tổng cộng 32 chiếc phân lớp Evarts và 46 chiếc phân lớp Buckley từ các Xưởng hải quân Boston, Xưởng hải quân Mare Island và hãng đóng tàu Bethlehem Steel.[6][3]

Hải quân Hoàng gia Anh xếp loại những con tàu này như những tàu frigate, vì chúng không có các ống phóng ngư lôi để được xếp lớp như một tàu khu trục.[15] Với những người đã từng quen thuộc với những con tàu do Anh thiết kế, lớp Captain khá lạ lẫm với nhiều đặc điểm không quen thuộc.[16] Những người từng phục vụ trên tàu lại thấy những chi tiết này đẹp mắt.[16] Trong số những khác biệt so với những con tàu do Anh thiết kế còn có việc bố trí giường ngủ thay vì võng, và cấu trúc lườn tàu được hàn thay vì lắp ghép bằng đinh tán.[17][18]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Captain (lớp khinh hạm) http://www.history.navy.mil/danfs/h8/hotham-i.htm http://www.naval-history.net/xDKEscorts15Fr-Capt1.... http://www.naval-history.net/xGM-Chrono-15Fr-Capt-... http://uboat.net/ http://www.uboat.net/allies/warships/class.html?ID... http://www.uboat.net/allies/warships/ship/5464.htm... http://www.uboat.net/allies/warships/ship/5467.htm... http://www.uboat.net/allies/warships/ship/5474.htm... http://www.uboat.net/allies/warships/ship/5481.htm... http://www.uboat.net/allies/warships/ship/5482.htm...